Uy tín của các công ty bảo hiểm được đánh giá khách quan và độc lập, căn cứ theo kết quả đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp; đánh giá uy tín doanh nghiệp trên truyền thông theo phương pháp Media coding; và khảo sát đối tượng nghiên cứu và các bên liên quan được thực hiện trong tháng 6/2022. Công nghệ thông tin Lời tòa soạn: Sự tăng trưởng của công nghệ thông tin đã có những tác động phụ tiêu cực về mặt kinh tế, xã hội, và chính trị, trong đó có việc làm lan truyền "những thông tin giả." Công nghệ thông tin đã cải thiện cuộc sống của rất nhiều người nhưng cũng đang làm giàu cho cuộc sống của rất ít người. Tin Công nghệ; Trải nghiệm; VĂN HÓA; Nhạc chế tràn lan và sự vô cảm của nghệ sĩ Việt những bài nhạc "xào nấu" ngày càng phát triển theo chiều hướng tiêu cực. Chúng biến tướng với phần lời vô nghĩa, nhảm nhí, tác động không tốt đến người nghe đặc biệt là Họ là những người phát minh ra một sản phẩm hay khởi đầu cho một xu hướng công nghệ. Họ là những người đã tạo tiền đề cho công nghệ phát triển như ngày nay. Hãy cùng nhìn lại 10 gương mặt được báo PC World bình chọn. Marty Cooper - cha đẻ của điện thoại di động LuanVan.net.vn - Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học miễn phí. Công Nghệ Thông Tin; Tóm tắt Luận án Nghiên cứu khả năng phân hủy của polyetylen trong sự có mặt . TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằng việc sử dụng dữ liệu bảng theo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009-2019. Các kết quả từ mô hình kinh tế lượng cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại di động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố. Ngoài ra, sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ góc độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi ích từ các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách nên ban hành một số chính sách quan trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cường ưu tiên cho chính phủ và phát triển cơ sở hạ tầng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel data according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009-2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variables such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vietnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase the economy, increase government priorities and develop infrastructure. Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM IMPACT OF INFORMATION AND COMMUNICATION TECHNOLOGY ON ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM Hà Thành Công TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh g iá tác động của công nghệ thông tin và truyềthông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằn g việc sử dụng dliệu bảng th eo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009 -2019. Các kết qu ả từ mô h ình kinh tế lượn g cho thấy ngoại trừ điện thoại cốđịnh, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoạđộng, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố thúc đẩy tăn g trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành ph ố. Ngoài ra, sự vượt trội củcác tỉnh thành khu vực miền Tr ung so với khu vực miền Bắc và kh u vực miềNam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầvào c ơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi íc h từ các yếu tố thúc đ ẩy tăn g trưởkinh tế, các nhà hoạc h định chính sách n ên ban hành một số trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trườpháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cườchính phủ và phát tr iển cơ sở hạ tầ ng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel dat a according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009 -2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variabl es such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vi etnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase government priorities and develop infrastructure. Keywords Information, technology, communication, GMM. Khoa Quản lý kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Email hathanhcong Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Trong số các nước đang phát triển đang được điều tra, một số nghiên cứu gần đây cho thấy mối quan tâm đặc biệt trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi - MENA [13] và khu vực Châu Phi - SSA [2, 21]. Sự quan tâm này đã cho thấy thực tế là trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia MENA và SSA đã trải qua một sự đột biến mạnh mẽ trong việc sử dụng CNTT-TT, được đo lường bằng một số chỉ số như thuê bao điện thoại di động và điện thoại di động, số lượng người dùng internet và số lượng thuê bao băng thông rộng [22]. Ngoài ra, một nghiên cứu tài liệu cho thấy so với các nước phát triển và châu Á, CNTT ở Việt Nam vẫn đang còn nhiều hạn chế cần tìm hiểu và thảo luận thêm để đưa ra ý tưởng rõ ràng về tác động của khuếch tán CNTT đối với tăng trưởng kinh tế cho các tỉnh, thành phố của Việt Nam. Bài báo trình bày nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, được phân chia thành 3 miền Bắc - Trung - Nam, bằng cách sử dụng mô hình sai phân tổng quát GMM hai bước trong giai đoạn 2009 - 2019. Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau Phần 2 trình bày tổng quan tài liệu ngắn gọn về chủ đề này. Phần 3 mô tả phương pháp nghiên cứu được áp dụng. Phần 4 là kết quả và thảo luận về các kết quả được tìm thấy. Phần 5 kết luận và khuyến nghị chính sách. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng các công cụ và sản phẩm sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của con người ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào. Một phương pháp để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế liên quan đến việc tìm hiểu liệu đã có sự gia tăng thực sự không bao gồm tăng giá trong tổng sản phẩm quốc nội GDP từ năm này sang năm khác vì GDP đại diện cho thị trường tương đương với tất cả các giá trị đo lường được sản xuất bởi một nền kinh tế. Ba chỉ số chính của tăng trưởng kinh tế là tích lũy vốn, tiến bộ công nghệ và gia tăng dân số và lực lượng lao động. Tích lũy vốn được coi là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Điều kiện quan trọng nhất cần được đáp ứng để đảm bảo sự phát triển là sự tồn tại của các khoản đầu tư đầy đủ. Và việc thực hiện đầu tư phụ thuộc vào mức tăng tiết kiệm để kiếm được từ các khoản thu. Là chỉ số thứ hai của tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ có thể được định nghĩa là toàn bộ hệ thống thông tin, tổ chức và kỹ thuật cần thiết trong quy trình sản xuất. Với sự trợ giúp của công nghệ, có thể thu được nhiều đầu ra hơn với việc sử dụng cùng một lượng đầu vào trong bất kỳ quy trình sản xuất nào. Điều này chắc chắn sẽ mang lại tiết kiệm trong lực lượng lao động và vốn. Chỉ số cuối cùng là sự gia tăng dân số và lực lượng lao động. Với sự gia tăng dân số dẫn đến sự gia tăng tương tự lực lượng lao động, một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế sẽ được tạo ra. Sự phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới của CNTT trong ba thập kỷ qua đã thu hút sự chú ý ngày càng tăng của nhiều nhà kinh tế và nhà nghiên cứu, những người đã tập trung vào nghiên cứu tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết đương đại nổi bật như lý thuyết Schumpeterian và lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển [19] đã nhấn mạnh hiệu quả tăng trưởng kinh tế của đầu tư vào CNTT và cũng bởi một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế. Những lý thuyết này cho thấy rằng dòng chảy của CNTT về phía cung của nền kinh tế cùng với các yếu tố cơ sở hạ tầng bổ sung có thể dẫn đến sự thay đổi về vốn, tạo ra sự cải thiện quy trình sản xuất thông qua tăng cường vốn và tạo ra những tiến bộ về công nghệ và chất lượng lực lượng lao động. Do đó, CNTT tạo ra giá trị gia tăng ở cấp độ doanh nghiệp và ở cấp độ ngành và do đó dẫn đến cải thiện năng suất và tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia [1]. CNTT là một công cụ phái sinh, nó đòi hỏi các quốc gia có nguồn lực cần thiết để đầu tư và con người có cơ hội hưởng lợi cao hơn từ hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng của các khoản đầu tư vào CNTT-TT. Trong khi các công trình lý thuyết đã cho thấy hiệu quả tích cực của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế, một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp. Một mặt, nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự hiện diện của một tác động tích cực đáng kể của sự khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào tác động của các công nghệ viễn thông như điện thoại, truyền hình đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Roller và Waverman [16] sử dụng dữ liệu của 21 quốc gia OECD trong khoảng thời gian 20 năm 1970 - 1990; Madden và Savage [10] kiểm tra một mẫu của 27 quốc gia Trung và Đông Âu trong giai đoạn 1990-1994, cho thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông và tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu gần đây đã khẳng định sự đóng góp mạnh mẽ của các công nghệ viễn thông mới hơn như điện thoại di động, máy tính cá nhân và internet cho sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển [6]. Trong số các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào các nước đang phát triển, ngày càng có nhiều công trình thực nghiệm cho rằng việc phổ biến và đầu tư vào CNTT tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Sử dụng một loạt các chỉ số về CNTT-TT, bao gồm cả điện thoại di động và tỷ lệ thâm nhập điện thoại và chi phí của các cuộc gọi trong nước, Andrianaivo và Kpodar [3] đã khẳng định rằng CNTT đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi trong giai đoạn 1988 - 2007. Tương tự, Lee và cộng sự [9] đã xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông như điện thoại cố định và điện thoại di động trong khu vực SSA. Họ đã áp dụng phương pháp GMM trên dữ liệu từ 44 quốc gia vùng Sahara trong giai đoạn 1975 - 2006. Các kết XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả đã khẳng định rằng việc mở rộng điện thoại di động là một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế ở châu Phi cận Sahara. Bằng dữ liệu chéo từ 17 quốc gia MENA, Sassi và Goaied [17] đã tìm thấy tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê của khuếch tán CNTT được đo bằng ba chỉ số, đó là điện thoại di động, điện thoại truyền hình và internet với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1960 - 2009. Sử dụng phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng, Pradhan và cộng sự [13] đã nghiên cứu bản chất của mối quan hệ nhân quả giữa cơ sở hạ tầng CNTT, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở 21 quốc gia châu Á trong giai đoạn 2001 - 2012. Họ kết luận rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều là vấn đề quyết định đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước châu Á. Bằng cách tiếp cận dữ liệu bảng động và tĩnh trong khuôn khổ mô hình tăng trưởng, Aghaei và Rezagholizadeh [17] nhận thấy rằng cứ tăng 1% trong đầu tư CNTT đã dẫn đến tăng trưởng kinh tế 0,52% tại các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo OIC trong giai đoạn 1990 - 2014. Pradhan và cộng sự [14] áp dụng các phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng và kiểm định quan hệ nhân quả Granger để xác định bản chất và hướng của mối quan hệ nhân quả hiện có giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và người dùng Internet và tăng trưởng kinh tế. Họ đã sử dụng dữ liệu từ các quốc gia G-20 trong giai đoạn 2001-2012 và họ đã xem xét một số biến kiểm soát quan trọng có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, như chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tổng vốn gộp trong nước. Các kết quả đã cho thấy mối liên hệ tích cực giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và internet và tăng trưởng kinh tế. Theo các tác giả này, cần chú ý đặc biệt đến việc áp dụng băng thông rộng và người dùng internet để tăng cường tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Sepehrdoust [18] đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm bằng phương pháp GMM để điều tra tác động của phát triển CNTT và tài chính đối với tăng trưởng kinh tế của các nước xuất khẩu xăng dầu OPEC trong giai đoạn 2002 - 2015. Kết quả cho thấy, 1% tăng của chỉ số phát triển tài chính và các biến CNTT đã dẫn đến mức tăng trưởng kinh tế lần lượt là 0,048% và 0,050%. Những kết quả này phù hợp với kết quả trước đó được tìm thấy bởi Nasab và Aghaei [11] trên các nước OPEC trong giai đoạn 1990 - 2007. Mặt khác, nghiên cứu thực nghiệm điều tra mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [4], cho thấy rằng khuếch tán CNTT có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế theo cách tiêu cực, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Họ giải thích mối quan hệ tiêu cực này bởi thực tế rằng CNTT-TT có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm và thị trường lao động thông qua việc giảm hoặc loại bỏ các vị trí cho lao động phổ thông, làm tăng thất nghiệp. Ngoài ra, CNTT tạo điều kiện thu hút và mở cửa thị trường mới cho các nước phát triển với chi phí của các nước đang phát triển. Nó cho phép các nước phát triển nâng cao sự thống trị của họ trên thị trường quốc tế bằng cách khai thác lợi thế cạnh tranh của họ so với các nước đang phát triển ít cạnh tranh hơn. Dewan và Kraemer đã sử dụng dữ liệu từ 36 quốc gia trong giai đoạn 1985 -1993, họ thấy rằng chỉ những nước phát triển mới được hưởng lợi từ hiệu quả tích cực của đầu tư CNTT đối với tăng trưởng kinh tế. Họ giải thích kết quả này bằng mức đầu tư CNTT thấp và thiếu các điều kiện môi trường phù hợp như cơ sở hạ tầng cơ bản, thực tiễn kinh doanh và các chính sách phù hợp của chính phủ ở các nước đang phát triển. Pohjola [15] đã không tìm thấy bất kỳ mối tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế trong trường hợp 43 quốc gia từ 1985 đến 1999. Theo tác giả, kết quả này là do khả năng tiếp cận công nghệ truyền thông và công nghệ lạc hậu ở nhiều nước đang phát triển. Trong một nghiên cứu khác, Lee và cộng sự nhận thấy rằng CNTT-TT có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế chỉ đối với các nước mới công nghiệp hóa chứ không phải các nước đang phát triển khu vực Đông Á. Các kết quả tương tự đã được Papaioannou và Dimelis [12] tìm thấy bằng cách sử dụng phương pháp GMM và mô hình tác động cố định cho 42 quốc gia đang phát triển và phát triển trong giai đoạn 1993 - 2001. Họ thấy rằng các khoản đầu tư vào CNTT chỉ thúc đẩy tăng trưởng ở các nước phát triển. Do đó, các tác giả cho rằng các nước đang phát triển nên thực hiện các biện pháp phù hợp để lấy lại vai trò tích cực của CNTT trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như tự do hóa chế độ thương mại, cải thiện nguồn nhân lực và áp dụng các chính sách thuận lợi của chính phủ. Pradhan và cộng sự [13] khẳng định rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều không đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước Tây Á, bao gồm các nhà sản xuất dầu mỏ Ả Rập giàu có. Điều này được giải thích bởi sự phụ thuộc lớn của các nền kinh tế này vào doanh thu từ dầu mỏ. Gần đây, Albiman và Sulong [2] đã kiểm tra tác động dài hạn của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế ở khu vực SSA trong giai đoạn 27 năm 1990 - 2014. Họ phát hiện ra rằng các biến đại diện cho CNTT, chẳng hạn như đường dây điện thoại, điện thoại di động và internet, có tác động tuyến tính tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi họ xem xét phân tích hiệu ứng phi tuyến, họ thấy rằng sự thâm nhập hàng loạt của các biến số CNTT dường như làm chậm tăng trưởng kinh tế trong khu vực SSA. 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được trích xuất từ Tổng cục Thống kê và cổng thông tin của Chính phủ báo cáo ICT. Dựa trên dữ liệu hàng năm của 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam, tác giả tổng hợp và tính toán dữ liệu cho 3 miền Bắc, Trung và Nam, từ năm 2009 - 2019. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009- 2019. Để làm điều này, chúng tôi đã ước tính một mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn dựa trên khung tăng trưởng cho dữ liệu bảng của Barro và Martin. Ngoài ra, mô hình này được áp dụng bởi một số nghiên cứu thực P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY nghiệm trước đây như [2, 17]. Phương trình sau mô tả mô hình tăng trưởng được thông qua trong nghiên cứu này G = α+ αG + αICT + αX + γ+ ε 1 Trong đó - i đại diện cho mỗi tỉnh, thành trong dữ liệu bảng và t chỉ khoảng thời gian. - G là biến phụ thuộc, đề cập đến Tổng sản phẩm quốc nội GDP thực tế bình quân đầu người của tỉnh thành i trong giai đoạn t, được sử dụng làm đại diện cho tăng trưởng. - G là biến trễ của GDP thực tế bình quân đầu người, biến độc lập này được đưa vào mô hình để kiểm tra sự hội tụ Theo Barro, 1998 - ICT là biến giải thích, đại diện cho công nghệ thông tin. Bao gồm số thuê bao cố định trên 100 dân TEL; số lượng thuê bao di động trên 100 dân MOB; số người dùng internet trên 100 dân INT. Sự khác biệt với các nghiên cứu thực nghiệm gần đây, bài báo bổ sung biến đại diện cho CNTT thứ tư là số lượng thuê bao băng rộng cố định trên 100 dân BBA. Trên thực tế nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc áp dụng băng thông rộng có ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng kinh tế, việc làm và khả năng cạnh tranh vững chắc. Do đó, các tỉnh thành có hệ thống băng thông rộng đã chứng minh kinh tế tăng trưởng cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn [14]. - X là biến kiểm soát đã được đưa vào mô hình để kiểm soát mọi đóng góp đáng kể của các biến này vào tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành trong suốt thời gian nghiên cứu. Với tham chiếu với các nghiên cứu trước đây trong tổng quan tài liệu, các biến kiểm soát trong các ước lượng thực nghiệm bao gồm sự phát triển tài chính được hỗ trợ bởi tín dụng cho khu vực tư nhân FIN; chi tiêu tiêu dùng chung của chính phủ tính theo phần trăm GDP GOV; mức độ mở của nền kinh tế của một quốc gia OPEN; và GCF là vốn đầu tư trong nước được tính bằng sự hình thành vốn gộp. Tất cả những giá trị này được biểu thị bằng phần trăm GDP. Ngoài ra, biến kiểm soát tỷ lệ lạm phát INF được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng được đưa vào mô hình. Các biến độc lập và biến giải thích đã được chuyển đổi thành logarit tự nhiên của chúng để sử dụng trong phân tích kinh tế lượng. - α là hằng số. α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động tiềm năng độ trễ của GDP thực tế trên đầu người ở mức hiện tại; dự kiến sẽ có ý nghĩa thống kê để xác minh thông số động của mô hình của chúng tôi. - α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động đáng kể nào của các biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh thành trong thời gian nghiên cứu. - α đại diện cho hệ số được ước tính cho mỗi biến kiểm soát X. - γđại diện cho các yếu tố cụ thể không quan sát được cho mỗi tỉnh, thành phố trong mẫu và sai số ngẫu nhiên được biểu thị bằng ε. Để ước lượng hệ số của các biến trong phương trình 1, tác giả sử dụng phương pháp GMM thay vì các phương thức dữ liệu bảng truyền thống, chẳng hạn như mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên và mô hình bảng hiệu ứng ngẫu nhiên. Theo Arellano và Bond, Arellano và Bover, sử dụng phương pháp GMM có thể cho phép chúng ta tránh các vấn đề về tác động cụ thể, tương quan chuỗi và biến nội sinh. Hơn nữa, mô hình tăng trưởng được áp dụng trong nghiên cứu công thức 1 bao gồm một biến phụ thuộc bị trễ để xác định biến động của biến phụ thuộc. Nghĩa là, GDP bình quân đầu người thực tế trước đó G có thể ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người hiện tại. Ngoài ra, các biến độc lập được sử dụng trong mô hình của chúng tôi có thể có vấn đề về tính nội sinh, đó là sự khác biệt để giải quyết bằng các phương pháp dữ liệu bảng truyền thống. Đặc biệt, phương pháp GMM có thể được áp dụng trong quy trình một bước hoặc hai bước. Ước lượng hai bước sử dụng phần dư thu được từ ước lượng bước đầu tiên để xây dựng ma trận hiệp phương sai nhất quán có trọng số khi các giả định về tính độc lập và tính đồng nhất đối với các tham số ước lượng không vững. Khác với các nghiên cứu trước đây [2, 21] thường sử dụng phương pháp GMM một bước, nghiên cứu này sử dụng GMM hai bước. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Nghiên cứu hiện tại đã điều tra ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền của Việt Nam trong giai đoạn 2009 -2019 bằng cách sử dụng mô hình GMM hai bước Phương trình 1. Các kết quả liên quan đến 3 miền Bắc, Trung và Nam được trình bày trong bảng 1 ÷ 4. Nghiên cứu đã thực hiện một số kiểm định thống kê để kiểm tra ước lượng vững của tất cả các ước lượng có được từ việc áp dụng mô hình GMM trong nghiên cứu này. Đầu tiên, hệ số phóng đại phương sai VIF được sử dụng để phát hiện các vấn đề đa cộng tuyến. Trong tất cả các ước lượng bảng 1, 4, các giá trị VIF thấp nhỏ hơn 2,5 đã được tìm thấy, điều này cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến cao giữa các biến giải thích. Kết quả này cũng được xác định bằng kiểm định tương quan Pearson chỉ ra sự không tồn tại của mối tương quan cao giữa các biến độc lập được đưa ra trong các ước lượng. Ngoài ra, kết quả của kiểm định Arellano và Bond về mối tương quan chuỗi bậc một và bậc hai trong sai phân bậc một và kiểm định Sargan về các hạn chế xác định được báo cáo cho tất cả các ước tính được trình bày trong bảng 3. Tác giả thấy rằng thử nghiệm Arellano và Bond chấp nhận giả thuyết không H0 rằng các sai số trong hồi quy sai phân bậc một cho thấy không có tương quan chuỗi bậc hai 2, cho thấy không có sai sót trong mô hình. Ngoài ra, kiểm định Sargan bác bỏ giả thuyết không H0 cho rằng mô hình ít biến là hợp lệ trong mô hình GMM, điều đó có nghĩa là các công cụ được xác định chính xác cho tất cả các ước lượng. Để đạt được kết quả này, tác giả đã tiến hành kiểm định Hansen về việc xác định giới hạn mô hình, kết quả chỉ ra rằng bộ công cụ trong mô hình là hợp lệ. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 Bảng 1. Tác động của TEL đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,9371***0,0160,0424 0,0950,9173***0,019TEL - 0,0073***0,001- 0,0266**0,012- 0,0039 0,003FIN 0,0603** 0,0040,0624** 0,0280,0546***0,007GOV 0,0121* 0,0050,0108***0,0340,0114***0,005OPEN 0,0250***0,0040,0913***0,0130,0263** 0,008INF - 0,0075***0,001- 0,0009* 0,007- 0,0035**0,002GCF 0,0476* 0,0050,0456** 0,0020,0423***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0020 0,1835 0,3344 0,0228 0,6282 Kiểm định Sargan p-value 0,2335 0,9291 0,1766 Lưu ý Các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% được ký hiệu lần lượt là *, ** và ***. Các sai số chuẩn đ ược báo cáo trong ngoặc đơn bên cạnh các ước tính chính xác. Tất cả các giá trị được dựa trên công cụ ước lượng theo phương pháp mô men tổng quát GMM hai bước. Bảng 1 cho thấy các kết quả thực nghiệm thu được từ ước lượng của mô hình trong phương trình 1 khi xem xét TEL, được đo bằng số thuê bao điện thoại cố định trên 100 cư dân, như là một đại diện cho biến công nghệ thông tin. Theo đó, hiệu ứng của điện thoại cố định TEL là tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đối với dữ liệu bảng của 3 miền Bắc, Trung và Nam. Những điều này phù hợp với kết luận trong nghiên cứu của Sassi và Goaied [17], Wamboye và cộng sự [21]. Tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích là do việc tiếp tục đầu tư vào điện thoại cố định mang lại hiệu quả kinh tế kém ở các miền, dẫn đến tỷ lệ đầu tư của đường dây điện thoại thấp hơn [2]. Bên cạnh đó do tác động của hiệu ứng thay thế, điện thoại cố định đã được thay thế bằng điện thoại di động là nguyên nhân là do sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng về điện thoại cố định [3]. Bảng 2 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét MOB, được đo bằng số lượng đăng ký di động trên 100 cư dân, đại diện cho biến CNTT. Các kết quả được trình bày liên quan đến các các miền Bắc - Trung - Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Bảng 2 chỉ ra rằng điện thoại di động MOB có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong tất cả các miền. Tuy nhiên, tác động mạnh mẽ và đáng kể hơn đã được tìm thấy đặc biệt ở Miền Bắc +7,08% và Miền Trung 3,33%, hiệu ứng này thấp hơn ở khu vực Miền Nam +2,4%. Kết quả cho thấy rằng trong giai đoạn gần đây 2009-2019, điện thoại di động đã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các miền của Việt Nam. Những điều này củng cố những nỗ lực của nhiều miền để tăng tốc thâm nhập của điện thoại di động. Chúng tạo điều kiện cho mọi người có quyền truy cập vào công nghệ di động để tăng tốc độ lan rộng và sử dụng các dịch vụ tài chính di động. Do đó, thông qua thâm nhập di động cao hơn, các hoạt động thương mại, dịch vụ, thanh toán sẽ thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn, các khách hàng của các ngân hàng sẽ dễ dàng tiếp cận tiền gửi và cho vay hơn và thực hiện các giao dịch tài chính khác nhau, chẳng hạn như lưu trữ và chuyển tiền và thanh toán hóa đơn. Bảng 2. Tác động của MOB đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,6571 *** 0,0110,0749 0,1110,8171***0,045MOB 0,0708 *** 0,0040,0333***0,0010,0240* 0,008FIN 0,0401* 0,0020,0851* 0,0440,0373***0,007GOV 0,0138* 0,0040,1401***0,0190,0133** 0,006OPEN 0,0037 0,0040,0949* 0,0530,0156* 0,009INF - 0,0060 ***0,001- 0,0052 0,006- 0,0018 0,001GCF 0,0469 *** 0,0050,0495***0,0010,0429 ***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0151 0,1773 0,0053 0,2602 0,0287 0,6395 Kiểm định Sargan p-value0,2192 0,9642 0,2109 Ngoài ra, thông tin tốt hơn thông qua điện thoại di động có thể cải thiện đáng kể việc thu thập thông tin cho người gửi tiền và các tổ chức tài chính và tăng cường giám sát. Sự thâm nhập điện thoại di động cao hơn thực sự làm giảm các hạn chế và chi phí vật lý về khoảng cách và thời gian [3, 21]. Bảng 3. Tác động của INT đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,5379***0,020- 0,1177 0,1140,7234***0,039INT 0,0391***0,0020,0463** 0,0190,0310***0,005FIN 0,0295***0,0040,0571* 0,0330,0214***0,008GOV 0,0183** 0,0030,1285***0,0320,0135** 0,006OPEN 0,0192***0,0040,0777***0,0170,0288***0,008INF - 0,0003***0,001- 0,0058* 0,007- 0,0028**0,001GCF 0,0404***0,0020,0461** 0,0040,0418***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0215 0,1001 0,0008 0,9095 0,0279 0,6637 Kiểm định Sargan p-value 0,2510 0,9517 0,1745 P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Bảng 4. Tác động của BBA đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,7781*** 0,0054 0,8546*** 0,027BBA 0,0153*** 0,0075*** 0,002FIN 0,0252*** 0,0040,0421** 0,0280,0351*** 0,007GOV 0,0137* 0,0040,0156*** 0,0181*** 0,005OPEN 0,0289***0,0289*** 0,008INF 0,0023** 0,0029* 0,002GCF 0,0425** 0,0405* 0,0566*** 0,008Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0043 0,1936 0,0002 0,8369 0,0215 0,6318 Kiểm định Sargan p-value 0,2373 0,9803 0,1176 Bảng 3 và 4 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét tương ứng INT, đó là số người dùng internet trên 100 dân và BBA là số lượng người đăng ký băng thông rộng được xác định trên 100 dân. Việc sử dụng internet INT và sử dụng băng thông rộng BBA của có tác động tích cực và có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế trong tất cả các tỉnh, thành của các miền ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng internet sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và từ đó thúc đẩy cạnh tranh dẫn đến việc phát triển các sản phẩm, quy trình và mô hình kinh doanh mới. Ngoài ra, nghiên cứu này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy sự hiện diện của tác động tích cực của internet đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [17, 21]. Các kết quả được tìm thấy cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đó cho thấy rằng các quốc gia có băng thông rộng đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế cao hơn [14]. Tuy nhiên, bảng 3 chỉ ra rằng tác động tích cực của việc sử dụng internet đối với tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn ở miền Trung +4,63% so với miền Bắc +3,91%, miền Nam +3,1%. Hơn nữa, Bảng 4 cho thấy việc áp dụng băng thông rộng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mạnh hơn ở miền Trung +2,88% so với miền Bắc +1,53%, miền Nam +0,75%. Những điều này cho thấy sự hiện diện vượt trội ở miền Trung trong những năm gần đây so với miền Bắc và miền Nam về việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Xem xét các biến kiểm soát được đưa ra trong các ước lượng, kết quả cho thấy rằng sự phát triển tài chính FIND đã ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế của các miền trong suốt thời gian nghiên cứu. Hiệu ứng này là tích cực từ +4,21% đến +8,51% ở khu vực miền Trung; từ +2,52 đến 6,03 ở khu vực miền Bắc và ở khu vực miền Nam, từ +2,14% đến +5,46%. Trong tất cả các ước lượng từ bảng 1 ÷ 4, chi tiêu tiêu dùng của chính phủ GOV có tác động tích cực và mạnh mẽ đến GDP bình quân đầu người ở khu vực miền Bắc từ +12,1% đến +18,3%, trong khi tác động của nó là yếu hơn nhưng tích cực đối với khu vực miền Nam từ +11,4% đến +18,1%, ở khu vực miền Trung là +10,8% đến 15,6%. Kết quả cũng cho thấy, sự cởi mở thương mại OPEN đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các miền trong thời gian nghiên cứu. Lạm phát INF có tác động tiêu cực và ảnh hưởng rất nhỏ dưới 1% đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các miền trong mẫu nghiên cứu. Biến kiểm soát cuối cùng được giới thiệu trong các ước lượng là đầu tư trong nước GCF. Kết quả cho thấy nó có tác động tích cực và có ý nghĩa hơn 4% đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp ở Miền Nam. 5. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành được phân chia theo 3 miền Bắc, Trung và Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Mô hình tăng trưởng GMM gồm hai bước được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bốn biến CNTT điện thoại cố định TEL, điện thoại di động MOB, sử dụng internet INT và áp dụng băng thông rộng BBA. Kết quả cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại đi động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các vùng miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Thật vậy, tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế cho thấy nhiều tỉnh, thành trong mẫu nghiên cứu không được hưởng lợi từ tiềm năng tăng trưởng của công nghệ viễn thông này. Điều này có thể là do khả năng chi trả cơ sở hạ tầng cần thiết để cài đặt và khuếch tán các đường dây điện thoại cố định trên tất cả các địa phương [2, 21]. Hơn nữa, kết quả này có thể được giải thích bởi thực tế là điện thoại di động là phương tiện thay thế cho điện thoại cố định ở các tỉnh, thành. Điều này đặc biệt đúng đối với các tỉnh miền Trung gần đây đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng về tỷ lệ thâm nhập điện thoại di động. Giải thích này phù hợp với những phát hiện của chúng tôi. Cũng trong nghiên cứu ngày, kết quả cho thấy điện thoại di động có tác động tích cực nhất đối với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành khu vực miền Trung trong giai đoạn nghiên cứu 2009 - 2019. Theo các nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu này xác nhận rằng việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng là một trong những yếu tố chính có liên quan đến phát triển kinh tế. Một phân tích sâu hơn cho thấy rằng sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam tồn tại qua thời gian nghiên cứu trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Một số hàm ý chính sách và khuyến nghị - Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, chính quyền và các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện thoại di động vì nó hiệu XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả hơn về mặt chi phí và có lợi hơn so với điện thoại cố định, đặc biệt là ở khu vực miền Bắc và miền Nam. - Các nhà chức trách nên thiết kế các chính sách, giải pháp yêu cầu nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng CNTT hiện có để tăng tốc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử để thúc đẩy quản trị tốt và cải thiện hiệu quả công khai. - Cần có chính sách nhằm kích thích sự phổ biến của CNTT trong khu vực tư nhân thông qua một số can thiệp chính sách như giảm thuế, trợ cấp, thúc đẩy thương mại điện tử và phát triển các mối quan hệ đối tác tư nhân - công cộng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ viễn thông. Điều này rất quan trọng vì nó đã được chứng minh rằng các công nghệ mới này tích cực và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và thúc đẩy cạnh tranh. - Ý nghĩa chính sách khác liên quan đến các biến kiểm soát được giới thiệu trong các ước lượng cũng cần được xem xét. Nhiều hành động nên được thực hiện nhằm phát triển lĩnh vực tài chính để giúp CNTT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, Việt Nam nên tiếp tục nỗ lực tăng cường sự cởi mở của các nền kinh tế và ưu tiên phân bổ nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng CNTT để phát triển từ cuộc cách mạng CNTT-TT. Ngoài ra, họ nên ban hành các chính sách cung cấp môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tăng cường cạnh tranh công bằng trong lĩnh vực CNTT-TT và thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ internet và sự hiện diện của internet, bao gồm cả chính phủ điện tử và thương mại điện tử. - Cuối cùng, chính phủ nên áp dụng các chính sách cần thiết để kiềm chế mức tiêu dùng của chính phủ và tỷ lệ lạm phát để tránh tác động tiêu cực của chúng đối với tăng trưởng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aghaei, Majid, Mahdieh Rezagholizadeh, 2017. The impact of information and commun ication technology ICT on economic growth in the OIC Countries. Environmental & Socio-Economic Studies, 17 255–76. [2]. Albiman, Masoud Mohammed, Zunaidah Sulong, 2016. The role of ICT use to the economic growth in Sub Saharan African region SSA. Journal of Science and Technology Policy Management 7 306–29. [3]. Andrianaivo, Mihasonirina, Kangni Kpodar, 2011. ICT, Fina ncial Inclusion, and Growth Evidence from African Countries, Working Paper No. 11/73, International Monetary Fund, IMF Working Paper. [4]. Aghion, Philippe, Peter Howitt, 1998. Endogenous Growth Theory. Cambridge MIT Press. [5]. Grimes, Arthur, Cleo Ren, Philip Stevens, 2012. The need for speed Impacts of in ternet connectivity on firm produ ctivity. Journal of Productivity Analysis 37 187–201 [6]. Gruber, Harald, Pantelis Koutroumpis, 2010. Mobile communica tions Diffusion facts and prospects. Communications and Strategies 77 133–45. [7]. Inklaar, Robert, Mary O’Mahony, and Marcel Timmer, 2005. ICT and Europe’s productivity performan ce Industry-level growth account comparisons with the United States. Review of Income and Wealth, 51 505–36. [8]. Koutroumpis, Pantelis, 2009. The economic impact of broadband on growth A simultaneous approach. Telecommunications Policy, 33 471–85. [9]. Lee Sang H., John Levendis, Luis Gutierrez, 2012. Telecommunications and economic growth An empirical analysis of Sub-Saharan Africa. Applied Economics, 44 461–69. [10]. Madden, Gary, Scott J. Savage, 1998. CE E telecommunications investment and economic growth. Information Economics and Policy, 10 173–195. [11]. Nasab, Ebrahim Hosseini, Majid Aghaei, 2009. The effect of ICT on economic growth Further evidence. International Bulletin of Business Administration, 10 46–56. [12]. Papaioannou, Sotiris K., Sophia P. Dimelis, 2007. Infor mation technology as a factor of economic development Evidence from developed and developing countries. Economics of Innovation and New Technology, 16 179–94. [13]. Pradhan, RudraP., Mak B. Arvin, Neville R. Norman, 2015. The dynamics of information and communications technolo gies infrastructure, economic growth, and fina ncial development Evidence from Asian countries. Technology in Society, 42 135–49 [14]. Pradhan, Rudra P., Mallik Girijasankar, Tapan P. Bagchi, 2018. Information communication technology ICT infrastructure and economic growth A causality evinced by cross-country panel data. IIMB Management Review, 30 91–103. [15]. Pohjola, Matti, 2002. The new economy Fac ts, impacts and politics. The Journal of Information Economics and Policy, 14 133–44. [16]. Roller, Lars-Hendrik, Leonard Waverman, 2001. Telecommunicatio ns infrastructure and economic development, a simulta neous equations approach. American Economic Review, 91 909–23. [17]. Sassi, Seifallah, Mohamed Goaied, 2013. Fina ncial development, ICTdiffusion an d economic growth Lessons from MENA region. Telecommunications Policy, 37 252–61. [18]. Sepehrdoust, Hamid, 2018. Impact of in formation and communication technology and financial development on economic growth of OPEC developing economies. Kasetsart Journal of Social Sciences. [19]. Solow, Robert M, 1956. A contribution to the theory of economic growth. Quarterly Journal of Economics, 70 65–94. [20]. Yousefi, Ayoub, 2011. The impact of information and communication technology on economic growth Evidence from developed and develo ping countries. Economics of Innovation and New Technology, 20 581–96. [21]. Wamboye, Evelyn, Kiril Tochkov, Bruno S. Sergi, 2015. Technology adoption and growth in sub-Saha ran African countries. Comparative Economic Studies, 57 136–67. [22]. World Bank, 2017. World Development Indicators. Washington, DC World Bank. AUTHOR INFORMATION Ha Thanh Cong Faculty of Business Administration, Hanoi University of Industry ResearchGate has not been able to resolve any citations for this study examines certain long-run relationships hypothesised to be present among per capita real GDP, information and communication technology ICT infrastructure, consumer price index, labour force participation rate, and gross fixed capital formation manifest in G-20 countries recorded for the 2001-2012 period. Using panel cointegration, the study finds that the variables are cointegrated and do not drift apart in the long run. Methodology using vector error correction models VECM further confirms that embellishment of ICT infrastructure – an apparent imperative in an economy's information technology IT policy formulation – for both fixed broadband and internet users causes a boost in the per capita GDP. Hamid SepehrdoustThe main objective of present study was to investigate the impact of information and communication technology ICT and financial development on the developing economies of the petroleum exporting countries OPEC for the period 2002–2015 using a panel-GMM type of growth model. The results extracted from the econometric model showed that an increment of one percent in the financial development index and ICT variables caused economic growth to increase by .048 and .050 percent, respectively. Moreover, the impact of variables such as inflation negative, active labor force growth positive, investment growth positive, and growth of gross fixed capital formation positive on the economic growth of the countries, were close to theoretical expectations. However, the impact of variables such as trade openness negative and government spending size positive on the economic growth of the selected countries did not support previous findings, perhaps because of the economic structural differences of the selected growth theories hypothesize economic growth processes as heavily dependent on investment in Information and Communication Technology ICT. However, the full empirical verification of this hypothesis still is an open task, particularly when growth is considered within selected countries such as the OIC countries. Furthermore, the conclusions derived from research concerning the causal relationship between ICT and economic growth is often sensitive to the research methodology employed. This paper employs dynamics and static panel data approach within a framework of growth model and apply them to the economy of OIC countries over the time period of 1990-2014. The estimates reveal a significant impact of investments in ICT on economic growth in the countries considered. The policy implication of this paper is that the OIC countries should design specific policies for promoting investment in Mohammed Albiman Zunaidah SulongPurpose This paper aims to examine the long run impact of information and communication technology ICT on economic growth in the Sub Saharan African SSA region. The direct impact of ICTs use was examined for a 27-year period 1990-2014, before the Millennium Development Goals MDGs era 1990-1999 and during the MDGs era 2000-2014. Second and third objectives examined the nonlinear effect of ICT in the economic growth and their threshold values, respectively. The main growth enhancing transmission channels of ICT use were also looked at. Design/methodology/approach The study uses panel method technique of system generalist method of moment. The data period was collected from the years 1990-2014 from 45 SSA countries. The three main proxies of ICT are fixed telephone lines, mobile phone users and internet users per 100 inhabitants. Findings For the direct impact analysis, mobile phone and internet were found to have triggered economic growth. However, for nonlinear effect analysis, mass penetration of ICT proxies seems to slow economic growth. The threshold analysis showed a penetration rate threshold of per cent for both mobile phone and internet, and 5 per cent for fixed telephone line before economic growth gets triggered. Finally, the results indicated that, except for financial development, human capital, institutional quality and domestic investment were the main growth enhancing transmission channels of ICTs use in the economy. Practical implications From a policy perspective, results suggest SSA region to open more doors for investment in technology to ensure sustainable development. Such policy has to focus on investment into main transmission channels of ICT, namely, human capital, institutional quality and domestic investment. The policymakers have to ensure that penetration of mobile phone, fixed telephone and internet is met by improvement in human capital, institutional quality and domestic investment. Moreover, to fully use the potential of ICT, improving the financial sector is highly recommended. Originality/value In SSA, studies that address the impact of ICT on economic growth was almost non-existent, especially on its nonlinear effect and main transmission channels. While few studies have examined the direct impact of ICT, this study extended the scope by including the main growth enhancing transmission channels and nonlinear effect of ICT on SSA economies using recent study analyzes the relationship between information and communication technologies ICTs and labor productivity growth in sub-Saharan Africa over the period 1975–2010. The results show that fixed-line and mobile telecommunications have a positive and significant impact on growth after penetration rates reach a certain critical mass. The thresholds are identified using nonparametric methods. Penetrations rates of between 20% and 30% for telephones and 5% for internet usage trigger increasing returns. FDI and openness are found to improve productivity and to help ICTs boost growth. Financial development serves as a possible transmission channel for the growth-enhancing effects of Hosseini Nasab Majid AghaeiEconomic growth theories predict that economic growth is driven by investments in Information and Communication Technology ICT. However, empirical studies of this prediction have produced mixed results, depending on the research methodology employed and the geographical configuration considered. To provide yet a further test, this paper employs a Generalized Method of Moments GMM within the framework of a dynamic panel data approach and applies it to the economy of OPEC member countries over the time span of 1990-2007. The estimates reveal a significant impact on economic growth of investments in ICT in the OPEC member countries. This implies that if these countries seek to enhance their economic growth, they need to implement specific policies that facilitate investment in P. Pradhan Mak ArvinNeville R. NormanThis paper investigates causal relationships between information and communications technologies ICT infrastructure, financial development, and economic growth in Asian countries over the twelve-year period 2001–2012. Using panel cointegration techniques, our empirical results show these variables are cointegrated, with a myriad of short-run and long-run causal links between ICT infrastructure and economic growth, between financial development and economic growth, and between ICT infrastructure and financial M SolowI. Introduction, 65. — II. A model of long-run growth, 66. — III. Possible growth patterns, 68. — IV. Examples, 73. — V. Behavior of interest and wage rates, 78. — VI. Extensions, 85. — VII. Qualifications, YousefiThis study examines whether, and to what extent, information and communication technology ICT has helped to improve economic growth. We adopt the traditional growth model as a framework to estimate contributions of labor, ICT, and non-ICT capital to economic growth in developed and developing countries. The estimates of the growth model by using time-series cross-country data of a total of 62 countries for the period of 2000–2006 reveal that economic growth effect of ICT differs across different income groups of countries. The paper concludes that ICT plays a major role in the growth of high and upper-middle income groups, but fails to contribute to the growth of the lower-middle income group countries. Such findings suggest that the level of investment in ICT is not the cause of slow growth in lower-middle developing countries as previously thought. Như chúng ta đã biết công nghệ thông tin như 1 phương tiện, công cụ không thể thiếu hỗ trợ chúng ta hàng ngày, công nghệ thông tin bao phủ, ảnh hưởng đến toàn thế giới không chỉ đối với nền kinh tế, trong kinh doanh mà nó còn ảnh hưởng đến cả đời sống của từng cá nhân. Vậy chúng ta cùng xem sức ảnh hưởng của công nghệ thông tin như nào động tích cựcSự ra đời của các thiết bị công nghệ, khoa học tiên tiến đã thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển hơn. Những thiết bị này, giúp con người giải quyết công việc một cách nhanh chóng, hiệu quả mà không phải bỏ ra quá nhiều thời gian và công sức .Tiêu chuẩn bảo mật cao hơn cho các tổ chứcTrong một thời gian dài, xác thực mật khẩu là một trong số ít cách các tổ chức có thể bảo mật dữ liệu của họ. Tuy nhiên tin tặc ngày càng thông minh hơn khi công nghệ tiến bộ và các biện pháp bảo mật đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ dữ liệu. Một tiến bộ công nghệ đã được chính minh là có hiệu quả là Hạ tầng khóa công khai PKIPKI sử dụng Secure Shell để xác thực tất cả các lần đăng nhập và tất cả người dùng có đặc quyền tương ứng. Chưa kể, nó cho phép truyền thông tin và dữ liệu an toàn hơn qua đám mây và Internet vạn vật. Đó không phải là tất cả. PKI ngày nay cũng rất hiệu quả về mặt chi phí, vì có nhiều lựa chọn thuê ngoài. Điều này có nghĩa là nó có thể truy cập được đối với cả tổ chức quy mô lớn và quy mô nhỏ. Lợi ích to lớn đối với nhà quản lýCác công ty, doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ mới, các ứng dụng quản lý vào từng bộ phận, vận hành hoạt động trong công ty, sản xuất kinh doanh sẽ giúp họ quản lý công việc tốt hơn và có cái nhìn đánh giá tổng quan hơn về hiệu quả phát triển kinh doanh. Ví dụ như việc ứng dụng của phần mềm quản lý hàng tồn kho trên nhiều kho, ứng dụng internet vạn vật vào cảm biến của máy móc để dự đoán trước lỗi sắp xảy ra,…Tự động hóa các thiết bị trong gia đình thông qua các phương tiện điều khiển thông minh như Smartphone, Remote control, điều hòa, robot,…Đặc biệt công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều nhất trong lĩnh vực logistic. Dựa vào sức mạnh kết nối, công nghệ thông tin đã tạo ra mạng lưới logistics trên toàn quốc giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất, chi phí thấp nhất và khâu xử lý đơn giản sắm onlineNhư chúng ta thấy Shopping là hoạt động thiết yếu hàng ngày, thay vì việc phải trực tiếp đến cửa hàng, trung tâm thương mại thì bây giờ chỉ cần một cú enter ngay sau đó bạn sẽ nhận được hàng trăm sản phẩm cần thiết từ Hàng tiêu dùng, thực phẩm, quần áo, máy móc, thiết bị,… Thông qua các trang thương mại điện tử như Shopee, Lazada,.. hay các trang quốc tế như Amazon, Alibaba,…Dễ dàng đi lại với các ứng dụng đặt xe Như trước đây thay vì việc đứng ngoài trời tìm, đợi xe hàng chục phút thì bây giờ chỉ cần sau vài giây chúng ta có thể dễ dàng kết nối được với các bác tài xế thông qua vô vàn các ứng dụng như Grab, Be, Go-Viet, My Go, Vinasun, DiDi, Mego… với rất nhiều ưu đãi, giảm giá…Dịch vụ ăn uốngNếu như các bạn có đang cài các ứng dụng về ăn uống như Now, Grap, Baemin, Foody, Lozi, thì bắt đầu mỗi bữa ăn các ứng dụng sẽ gửi cho các bạn thông báo hỏi bạn muốn ăn gì hay thông báo cho các bạn về các chương trình giảm giá hôm nay, qua đó bạn có thể thỏa sức lựa chọn các món Á, Âu, ý, món ăn các miền mà bạn không cần mất thời gian đi lý tiền an toàn hơnCông nghệ cũng đã cách mạng hóa cách chúng ta quản lý tiền của mình. Đã qua rồi cái thời bạn phải chất đống tất cả các biên lai để nộp thuế, nộp tiền điện nước…. Ngày nay, chỉ với một vài thao tác và một cú nhấp chuột, bạn có thể có tất cả tài liệu của mình ở một nơi, thanh toán hóa đơn và nộp thuế một cách dễ nữa, bạn không phải mang theo tiền mặt bên mình. Nhờ ví online, thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, tiền của bạn được an toàn trong tài khoản và có thể giao dịch dễ dàng. Chưa kể, việc đầu tư và theo dõi danh mục đầu tư cũng dễ dàng hơn rất nhiều vì bạn có thể thực hiện ngay tại nhà của mình. Giáo dụcInternet là một thư viện, là một kho tàng kiến thức khổng lồ và vô tận đem đến những lợi ích tuyệt vời cho việc học tập phát triển kiến thức và kỹ năng. Các ứng dụng học tập trực tuyến không những giúp người dùng chủ động về thời gian, chi phí mà còn phá vỡ rào cản về không gian và thời ngắn khoảng cách, kết nối con người nhanh chóngVới sự ra đời của các mạng xã hội mà phổ biến nhất là facebook, zalo, twitter,…đã giúp khoảng cách của tất cả mọi người trên thế giới trở nên ngắn hơn. Bạn có thể cập nhật được tình hình của mọi người ngay cả khi không ở bên, bạn có thể kết bạn được với nhiều người mới có thể chat, gọi video call, gọi thoại cho người thân, khách hàng để giải quyết công việc nhanh hơn, Gặp nhau dễ dàng hơn khi ở thêm nhiều việc làmKhi ngành công nghệ thông tin ra đời và phát triển đã tạo ra thêm nhiều công việc mới mang lại nhiều cơ hội về việc làm cho cộng động. Nhiều bạn trẻ đang làm trong ngành công nghệ thông tin và có thu nhập rất cao cải thiện đời ảnh hưởng tiêu cực của công nghệ thông tinBên cạnh những tác động tích cực thì công nghệ thông tin cũng tồn tại rất nhiều tác động tiêu cựcCông nghệ làm bạn trở nên lười nhác hơn, đôi khi khiến bạn trở nên ích kỷ và ” điên khùng”. Bạn không muốn làm việc nhà, bạn sử dụng robot làm việc thay bạn, trong khi đó bạn ngồi nghe nhạc, xem phim,..Nghiện sử dụng công nghệNghiện công nghệ là việc sử dụng quá mức các thiết bị di động, các trò chơi máy tính, mạng xã hội, nhắn tin. Nó đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng đối với rất nhiều công nghệ có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần, công việc, học tập và các mối quan dù công nghệ có thể mang lại nhiều tác động tích cực, nhưng bản chất gây nghiện của nó có thể gây ra những hậu quả tiêu cực cho các cá nhân và toàn xã hội. Những người nghiện công nghệ có xu hướng dành quá nhiều thời gian cho việc sử dụng các thiết bị điện tử, điều này có thể dẫn đến những tác động tiêu cực về thể chất và tâm dụ, họ có thể bị mỏi mắt, đau cổ, đau đầu và các vấn đề sức khỏe khác do sử dụng các thiết bị điện tử trong thời gian dài. Họ cũng có thể cảm thấy bị cô lập khỏi những người khác và cảm thấy lo lắng hoặc trầm cảm do dành quá nhiều thời gian trước màn mất tập trungMọi người luôn bị phân tâm bởi công nghệ, nhưng với việc điện thoại thông minh, laptop thì điều này ngày càng trở nên phổ biến thoại di động, máy tính xách tay và các thiết bị điện tử khác có thể là những công nghệ gây phân tâm lớn, thường khiến mọi người mất tập trung vào công việc họ đang làm. Mạng xã hội trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống cá nhân của chúng ta, nhưng lượng thời gian dành cho mxh cũng gây ra nhiều phiền toái nghệ cũng có thể khiến mọi người bị phân tâm khỏi nhiệm vụ đang làm, chẳng hạn như khi điện thoại của một người bị tắt hoặc máy tính của họ thông báo cho họ về một email, với tất cả những sự phân tâm này, mọi người có thể khó tập môi trường làm việc và học tập, mọi người thường bị gián đoạn bởi các thông báo hoặc email, điều này có thể làm giảm năng suất của vấn đề về sức khỏe Bây giờ mọi người dành nhiều thời gian ngồi hơn bao giờ hết. Điều này dẫn đến một số vấn đề sức khỏe như bệnh tim, tiểu đường, béo phì và cột sống. Ngoài ra, việc sử dụng các thiết bị điện tử phát ra ánh sáng xanh, có thể gây hại cho mắt của chúng ta theo thời nghệ thông tin cũng đã ảnh hưởng đến đồng hồ sinh học của mỗi người. Bởi con người luôn có thói quen sử dụng điện thoại trước khi đi ngủ, hay xem phim trước khi đi ngủ, ngoài ra ánh sáng xanh được phát ra từ các đồ dùng công nghệ như smartphone, tablet, laptop, desktop… có thể ngăn chặn cơ thể tiết ra hormone melatonin vào ban đêm, làm cho bạn giảm cảm giác muốn trườngViệc sản xuất và sử dụng công nghệ tạo ra chất thải có thể gây ô nhiễm không khí, đất và nước. Và việc phụ thuộc vào các thiết bị điện tử có nghĩa là chúng ta tạo ra một lượng lớn chất thải điện tử, thường chứa các hóa chất độc sản xuất năng lượng để cung cấp năng lượng cho các thiết bị điện tử trong nhà, cửa hàng và nhà máy sẽ thải khí carbon dioxide vào khí quyển, góp phần làm trái đất nóng vấn đề về gia đình và mối quan hệCông nghệ có thể là một sự phân tâm lớn và thường có thể dẫn đến xung đột và các vấn đề gia đình. Nhiều cặp vợ chồng tranh cãi về lượng thời gian họ dành cho thiết bị của mình. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu giao tiếp và thân mật trong các mối quan hệNgoài ra, trẻ em thường có thể cảm thấy bị bỏ rơi hoặc bị phớt lờ khi cha mẹ chỉ tập trung vào điện thoại, máy tính bảng hay laptopCông nghệ cũng có thể gây nghiện và khiến mọi người mất tập trung vào những điều quan trọng, điều này có thể dẫn đến việc mọi người dành ít thời gian hơn cho những người thân yêu và có nhiều thời gian hơn ở một mình trước màn hình. Điều này có thể cực kỳ gây tổn hại cho các mối quan hệ gia đình và có thể gây ra thiệt hại lâu dục, hoc tậpMột trong những tác động tiêu cực đó là học sinh, sinh viên dành nhiều thời gian hơn cho các thiết bị và ít thời gian tương tác với nhau hơn. Ngoài ra, các kỹ năng cơ bản như viết tay cũng gặp khó khăn khi họ đã quá quen với việc đánh sử dụng các thiết bị trong lớp học có thể gây mất tập trung cho cả học sinh và giáo viênCơ hội việc làm ít điDo dần dần máy móc thiết bị được thay thế cho con người làm việc, lao động dẫn đến sử dụng con người vào trong công việc ít vậy ta có thể thấy ảnh hưởng của công nghệ thông tin vô cùng lớn. Vì vậy chúng ta phải biết phân bổ quỹ thời gian sinh hoạt khi dùng mạng và phải chắt lọc thông tin sao cho phù hợp để sử dụng mạng một cách hiệu quả nhất mà ko bị lệch thời gian sinh học cũng như ảnh hưởng đến cuộc sống, học tập quá nhiều. Công nghệ thông tin rất rộng bạn ạ, nói bao quát sẽ như thế này, công nghệ thông tin rất có ích cho việc học tập, làm việc. cũng có nhiều mặt Cái gì cũng thế, thường có tính hai mặt. Internet cũng vậy thôi, cùng với các luồng thông tin khách quan, nhanh nhạy, phong phú mang tính toàn cầu, có không ít những hãng truyền thông hay cá nhân lợi dụng ưu thế công nghệ của Internet, tung lên mạng những thông tin thất thiệt, không khách quan, xuất phát từ quan điểm của họ và vì lợi ích của họ. Muốn khai thác Internet có hiệu quả, người sử dụng Internet phải biết tìm nguồn tra cứu thích hợp với nhu cầu thông tin của mình, hơn thế còn phải biết xử lý và chọn lọc thông tin, hay nói cách khác là biết loại trừ những thông tin thất thiệt và biết “tiêu hóa” thông tin có ích để biến thành tri thức của mình. Cho nên việc mở rộng Internet là cần thiết, nhưng phải được sử dung cho những mục đích có lợi như phục vụ học tập, nghiên cứu, tìm kiếm những thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ, giao lưu với bạn hàng, Nếu sử dụng Internet để truy cập vào những trang Web đen tìm những trò tiêu không lành mạnh thì thật là nguy hại, đặc biệt là đối với tuổi vị thành niên. Vì vậy, những cửa hàng Internet cũng như việc sử dụng Internet ở trường học, ở gia đình đều cần được quản lý bằng những hình thức khác nhau, để sử dụng cho mục đích có lợi, ngăn chặn và loại trừ những ảnh hưởng xấu. Đấy cũng là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Với sự phát triển không ngừng nghỉ, hiện nay công nghệ thông tin đã bao phủ khắp thế giới, trở nên thân thiết với con người. Vậy công nghệ thông tin ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào? Hãy cùng mình tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực mà nó mang lại nhé! Những lợi ích của công nghệ thông tin mang lại Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã mang lại cho con người rất nhiều lợi ích tuyệt vời sau đây Mua sắm dễ dàng hơn với sự phát triển của công nghệ thông tin Trước đây khi có nhu cầu mua sắm, người tiêu dùng phải trực tiếp đến cửa hàng, thì ngày nay bạn chỉ cần ngồi ở nhà và đặt mua. Bất kể là sản phẩm gì, từ quần áo, điện tử cho đến việc đi chợ… cũng có thể mua online. Chỉ cần vài cú click chuột, những sản phẩm ấy sẽ được giới thiệu đi kèm hình ảnh và cả đánh giá từ người dùng. Công nghệ thông tin phát triển giúp mua sắm dễ dàng hơn Di chuyển linh hoạt hơn với ứng dụng đặt xe. Các ứng dụng di chuyển nổi tiếng như Uber, Grab đã khẳng định thế mạnh của mình. Nhận thấy tính ưu việt của công nghệ này, các hãng taxi truyền thống cũng ra mắt những ứng dụng riêng bắt nhịp làn sóng mới. Nhờ áp dụng công nghệ để giảm thiểu các chi phí nhân sự như tổng đài, điều phối viên,… Ăn uống nhanh chóng, tiện lợi Giờ đây không khó để bạn tìm một món ăn ngon với mức giá hợp lý. Bạn chỉ việc ngồi tại nhà, đặt mua đồ ăn online và sẽ được giao hàng mang đến tận nơi. Bởi hiện nay các ứng dụng đặt thức ăn trực tuyến như Vietnammm, DeliveryNow,… đã bắt đầu bước vào cuộc sống của chúng ta. Ứng dụng cho phép người dùng lựa chọn hàng loạt các quán ăn, nhà hàng từ món Châu Á, Châu Âu, Việt Nam, cho đến các món ăn bình dân, đặc sản,… Chủ động việc học tập trên internet Công nghệ thông tin còn mang đến những lợi ích tuyệt vời cho việc học tập phát triển kiến thức và kỹ năng. Các ứng dụng học tập trực tuyến không những giúp bạn có thể chủ động về thời gian, chi phí mà còn phá vỡ rào cản về không gian và thời gian, giúp bạn học mọi lúc mọi nơi. Liên lạc, kết nối gần nhau hơn bởi sự phổ cập của thiết bị công nghệ Chỉ với một chiếc smartphone hay laptop là bạn có thể trò chuyện, trao đổi công việc với đối tác, khách hàng xuyên quốc gia. Vừa tiết kiệm được thời gian, thu hẹp khoảng cách mà còn dễ dàng xử lý những vấn đề quan trọng một cách đơn giản, nhanh chóng. Không những thế, bạn có kết nối với bạn bè, người thân dù đang cách xa nhau hàng ngàn cây số, giúp mối quan hệ trở nên thân thiết hơn. Bên cạnh mặt lợi ích thì sự phát triển của ngành công nghệ thông tin cũng có nhiều tác hại không mong muốn. Dưới đây là một số tác hại của công nghệ Gây mất ngủ Công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến đồng hồ sinh học của mỗi người. Các nhà khoa học nghiên cứu và chỉ ra rằng, ánh sáng có sắc tố màu xanh được phát ra từ các đồ dùng công nghệ như smartphone, tablet, laptop, desktop... có thể ngăn chặn cơ thể tiết ra hormone melatonin vào ban đêm. Công nghệ thông tin có nhiều tác hại nếu không sử dụng đúng cách Ánh sáng xanh này làm gián đoạn đồng hồ sinh học của bạn và khiến bạn không thể có được một thời gian biểu phù hợp. Điều này có thể gây mất ngủ từ đó làm giảm khả năng ghi nhớ của não bộ. Giảm trí nhớ khi sử dụng thiết bị công nghệ quá nhiều Bất kỳ một hành động nào trong quá trình làm việc trên mạng như nói chuyện, kiểm tra email, nhắn tin,…cũng có thể xóa toàn bộ thông tin đó trước khi chúng được lưu lại. Vì vậy, bạn không nên làm quá nhiều việc một lúc trên internet. Bên cạnh đó, làm việc với máy tính, hay dùng smartphone nhiều khiến con người bị thiếu ngủ, mệt mỏi dẫn đến hiện tượng, tình trạng quên mau hơn. Mất tập trung bởi vô vàn thứ hấp dẫn trên internet Đọc sách, học trực tuyến rất tiện lợi nhưng nó cũng có nhiều tác hại. Chẳng hạn khi bạn đọc một bài báo mà xung quanh có rất nhiều hình ảnh quảng cáo. Điều này khiến bạn nhanh chóng bị phân tâm và mất tập trung vào vấn đề mình đang đọc. Làm sao để hạn chế những ảnh hưởng xấu do công nghệ thông tin mang lại Nếu không áp dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống, thì bạn đúng là kiểu người “quê mùa”. Tuy nhiên khi dùng, bạn cần kiểm soát tốt bản thân bằng cách - Hạn chế sử dụng internet vào những công việc vô ích như chơi game, xem phim hay theo dõi các chương trình truyền hình. Vì những việc này sẽ làm mất thời gian và còn gây ảnh hưởng đến thần kinh và mắt. - Rèn luyện kĩ năng tìm kiếm hiệu quả nguồn dữ liệu trên mạng và tham gia các nhóm tích cực, tiến bộ để tránh bị lôi kéo vào các cuộc bàn luận vô bổ. - Không truy cập những trang web có nội dung bạo lực, đồi trụy, phản động,... Nên có chính kiến rõ ràng để không bị lôi kéo bởi các nhóm hay tổ chức không minh bạch để tránh bị lợi dụng. Tăng cường hoạt động chia sẻ những thông tin dữ liệu hữu ích và vui chơi, giải trí lành mạnh.. Trên đây là những ảnh hưởng của công nghệ thông tin đến cuộc sống của con người, cũng như cách sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả. Bài viết hi vọng đã cung cấp tin tức hữu ích cho bạn đọc. >> Đọc thêm Điểm sàn của ngành công nghệ thông tin những năm gần đây. Ngày đăng 21/04/2016, 1358 Ngày nay, với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kĩ thuật, thế giới đang thay đổi nhanh chóng từng ngày. Đặc biệt, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã tạo những điều kiện và cơ hội cho mọi người giao lưu, liên kết, chia sẻ sở thích, sự quan tâm, ý tưởng, những việc làm bằng các phương tiện truyền thông hiện đại – nhất là sự phát triển ngày càng đa dạng của internet, trong đó có các mạng xã cái gì cũng có hai mặt mặt tích cực và mặt tiêu cực, và mạng xã hội cũng không phải là một ngoại lệ. Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên hệ thân Mạng Xã Hội Những tích cực tiêu cực Ngày nay, với phát triển tiến khoa học kĩ thuật, giới thay đổi nhanh chóng ngày Đặc biệt, bùng nổ công nghệ thông tin tạo điều kiện hội cho người giao lưu, liên kết, chia sẻ sở thích, quan tâm, ý tưởng, việc làm phương tiện truyền thông đại – phát triển ngày đa dạng internet, có mạng xã có hai mặt mặt tích cực mặt tiêu cực, mạng xã hội ngoại lệ Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên hệ thân Ngày nay, mạng xã hội dần trở nên phổ biến gần gũi với người, đạc biệt giới trẻ Chúng ta tưởng tượng mạng xã hội khối Rubic khổng lồ luôn xoay chuyển để tạo nề tảng phát triển theo hướng tích cực Nó giúp dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt nhiều thông tin quan trọng, giao lưu, kết bạn với tất người khắp nơi… Mạng xã hội mang đến cho người dùng nhiều tính vượt trội, đại đáp ứng nhu cầu giao tiếp xã hội nay, như Trò chuyện; Email; xem phim, ảnh, điện thoại Internet Skype, Zalo; nhật kí cá nhân Blog; diễn đàn, trao đổi, tìm kiếm thông tin, chuyển thông tin… Những lợi ích to lớn mạng xã hội đời sống người phủ nhận không muốn nói thiết, chí trở thành phần tất yếu sống xã hội không người Mạng xã hội theo nghĩa tiếng Anh Social Network người ta hay thường gọi “mạng ảo” hình thành mạng Internet Mạng xã hội MXH sử dụng mạng Internet để kết nối thành viên mạng với xa lộ thông tin phong phú Thuận tiện nhận rõ sử dụng MXH người ta tận dụng lợi giao tiếp, chia sẻ nhanh, có tính lan truyền rộng nên thu hút lượng người tham gia Năm 1995, đánh dấu xuất MXH lần Mỹ với đời trang Clatxơnet Từ đó, MXH nhanh chóng bùng nổ, phát triển vũ bão với đời nhiều hình thức đa dạng phong phú như Youtube, Blogsopt, Paltalk, Facebook… NẾU bạn sử dụng mạng xã hội cách đắn, hình thức giao tiếp mang lại cho bạn nhiều lợi ích bạn nghĩ Nó giúp dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt nhiều thông tin quan trọng, giao lưu kết bạn với tất người khắp tận dụng tiện ích mà mạng xã hội mang lại Giới thiệu thân đến người Mạng xã hội cách tốt để giới thiệu thân đến tất người Chúng ta giới thiệu tính cách, sở thích, quan điểm thân mạng xã hội giúp tìm kiếm hội phát triển khả thân Nó giúp cho tìm hiểu nhiều thông tin quan trọng mà phương tiện truyền thông khác Kết bạn Chúng ta biết nhiều thông tin bạn bè người thân cách kết bạn mạng xã hội Chúng ta gặp gỡ giao lưu với tất người giới có sở thích hay quan điểm giống Từ xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hợp tác với nhiều mặt 3 Học hỏi kiến thức, kĩ Tiếp nhận thông tin từ mạng xã hội cách hiệu Bạn học hỏi thêm nhiều kiến thức, trau dồi kĩ giúp cho bạn hoàn thiện thân Kinh doanh Mạng xã hội môi trường kinh doanh vô lí tưởng, đầy tiềm Bạn dùng để bán hàng online hay quảng cáo sản phẩm công ty, doanh nghiệp giúp cho bạn tìm kiếm khách hàng tiềm Bày tỏ quan điểm cá nhân Bạn đừng ngại ngùng việc chia sẻ thông tin, quan điểm thân với tất người mạng xã hội Nếu bạn khám phá sở thích mới, chia sẻ với giới Bằng việc sử dụng mạng xã hội, bạn chia sẻ tất thứ, từ quan điểm sống đến phong cách thời trang Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên hệ thân Mạng xã hội dẫn khiến người rời xa dần giới thực, xao nhãng mục tiêu sống, nơi người ta cạnh tranh để nhiều "like" Đối với kinh tế Như biết, thời đại công nghệ số với phát triển nhanh, mạnh mẽ khoa học, công nghệ, cạnh tranh tồn khốc liệt, quy luật đào thải phân hóa, cải tiến từ cũ đến tiến diễn dội, thời gian coi yếu tố định tới thành công, hay thất bại hoạt động sống Tổ chức, cá nhân biết tận dụng thời gian, tranh thủ thời cơ, vận hội có nhiều khả thành công ngành, lĩnh vực công tác Việc phân bổ không hợp lí dành thời gian sử dụng MHX nhiều ngốn không thời gian, tiền bạc cho người sử dụng, từ vô tình kéo giảm suất, chất lượng, hiệu công việc, gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế đất nước nói chung, thu nhập tài tổ chức, cá nhân nói riêng Đối với sức khỏe Theo kết nghiên cứu nhà tâm lý Mỹ cho thấy, tham gia MHX nhiều khiến người dùng có ảnh hưởng định tâm sinh lý phát triển cân thể Mức độ dùng MXH nhiều nguy gia tăng khả mắc bệnh trầm cảm, rối loạn tâm thần, chí đẩy người vào trạng thái bất an bị xúc phạm phẩm chất danh dự Có nhiều trường hợp, người sử dụng MXH hệ thiếu niên bị kích thích phim hành động, game bạo lực, phim đồi trụy… dẫn tới nhiều hưng cảm bột phát, nguyên nhân gây hành vi chống đối nảy sinh tệ nạn xã hội Các quốc gia phương Tây sử dụng MXH để kêu gọi tập hợp lực lượng biểu tình, lật đổ thể chế trị Bắc Phi Trung Đông – 2011 Đối với an ninh, quốc phòng Lợi dụng nhiều tính vượt trội MXH, lực thù địch, phản động loại tội phạm triệt để sử dụng vào âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước hoạt động vi phạm pháp luật khác chúng Còn nhớ kiện “Mùa xuân Ả rập” diễn số nước Bắc phi, Trung Đông hồi tháng 2-3 năm 2011 dẫn tới thể chế trị Tổng thống đương nhiệm, lực thù địch sử dụng vũ khí MXH công cụ, kênh đắc lực để tuyên truyền, huấn luyện kích động tập hợp lực lượng chống phủ Đối với Việt Nam, kẻ địch thực chiến lược “Diễn biến hòa bình” thông qua tuyên truyền phá hoại tư tưởng chiến tranh tâm lý để phá hoại cách mạng nước ta Chúng tích cực tài trợ, hậu thuẫn cho tổ chức phản động, phần tử chống đối sử dụng MXH viết qua Blog, Web, Twister, Yahoo… để xuyên tạc, tuyên truyền chống Đảng Nhà nước ta; bước đầu độc, thúc đẩy, đòi tự do, dân chủ, nhân quyền, kêu gọi xuống đường biểu tình chống đối Đảng, Nhà nước mạng xã hội … Đối tượng Ngô Quang Mạnh Cường 27 tuổi, trú số 56, Dương Hòa, Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế lập Facebook FB có tên “Phi đội gà bay” để lừa đảo chiếm đoạt tài sản Đối với giáo dục, đào tạo Theo chuyên gia nghiên cứu, tham gia MXH qua nhiều làm giảm thời gian học tập, nghiên cứu Không thế, MXH tác động làm cho người dùng dễ tập trung ý, giảm trí nhớ thời gian dài làm tăng nguy thay đổi tiêu cực não người Ảnh hưởng trực tiếp đến công việc, học tập, tiền đồ tương lai, phận bạn trẻ Việc dùng MXH đặc biệt Facebook với mức cho phép làm giảm khả đọc, nghiên cứu, từ giảm chất lượng học xuống, ảnh hưởng trầm trọng đến chất lượng dạy học thuộc ngành giáo dục đào tạo Ngoài ra, mạng xã hội có ảnh hưởng tiêu cực khác như Giảm tương tác người Bạn ý đến thiết bị điện tử dành thời gian, quan tâm người diện sống thực Điều làm họ bực bội Cuối người xung quanh chí không muốn chơi với bạn 2 Tăng cảm giác muốn gây ý Đăng trạng thái mơ hồ, khó hiểu Facebook để thu hút ý người khác trở thành thói quen gây khó chịu người sử dụng mạng xã hội Cuộc chiến cạnh tranh lượt like thông báo hồi kết Xao nhãng mục tiêu thực sống Thật dễ dàng để tóm tắt xảy mạng xã hội, người dần xao nhãng mục tiêu thực sống Thay cố gắng để thực hóa ước mơ cách trở thành người thực tài năng, giỏi giang giới trẻ có xu hướng phấn đấu trở thành Internet Có nguy mắc bệnh trầm cảm Theo nghiên cứu gần đây, người thường xuyên sử dụng mạng xã hội thường có cảm xúc tiêu cực nhiều hơn, bao gồm trầm cảm Sử dụng mạng xã hội đặc biệt có hại với người tiền sử mắc bệnh trầm cảm Nếu bạn bắt đầu cảm thấy buồn bã, bi quan, nên ngừng sử dụng mạng xã hội thời gian 5 Sử dụng mạng xã hội ảnh hưởng đến trình sáng tạo Lướt trang mạng xã hội làm tê liệt tâm trí người, tương tự xem truyền hình cách vô thức Nếu bạn lên kế hoạch làm việc hôm tắt ứng dụng mạng xã hội Xuất “anh hùng bàn phím” Mọi người cảm thấy thoải mái mạng xã hội bắt đầu nói điều họ thường không nói sống thực Nếu bạn không thường xuyên nói tục, chửi thề, chắn bạn phải tiếp xúc với điều mạng xã hội Nếu bạn thường xuyên nói điều vậy, dừng lại Bạn không vô danh mạng xã hội bạn nghĩ đâu Với xuất “anh hùng bàn phím” mạng xã hội, người trở nên thô lỗ bình thường 7 Thường so sánh bạn với người khác mạng làm bạn đau khổ Với giúp sức công nghệ, hình ảnh hành động hiển thị Facebook khác xa với sống đời thực người Sau thời gian, bạn nghĩ người quen Facebook đẹp tốt bạn, điều tạo khoảng cách xã hội Tuy nhiên, nhớ tất người mạng xã hội người bạn Mất ngủ Ánh sáng phát từ hình điện tử làm ảnh hưởng đến tâm trí khiến bạn ngủ Ngủ đủ giấc đêm ngày trở nên khó khăn Cách tốt không để điện thoại gần bạn ngủ Thiếu riêng tư Từng có tin đồn trang mạng xã hội bán thông tin cá nhân người sử dụng, lại thêm nhiều nguy từ hacker, virus Cả quan tình báo Mỹ dính vào vụ lùm xùm liên quan đến việc cho phép phủ truy cập vào liệu cá nhân bao gồm email, gọi Skype… Điều rõ ràng cho thấy bảo mật riêng tư Internet bị xâm hại, cảnh báo riêng tư cá nhân dần mạng xã hội phát triển Nếu bạn không khôn ngoan post thông tin mạng, có chúng quay lại cắn “bạn” tương lai Sẽ thầy, cô giáo hay sếp bạn vô tình đọc status “trẻ trâu” bạn? Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên hệ thân Bản thân em người hay sử dụng trang mạng xã hội facebook, youtube, instagram… Mỗi ngày, em sử dụng trang mạng xã hôi khoảng 1- tiếng ngày để cập nhật thông tin kiện xảy khắp giới; tích lũy thêm nhiều thông tin, kiến thức người xung quanh; giải trí qua video, viết hay; nói chuyện, trao đổi thông tin với người bạn sống xa Nhưng bên cạnh đó, em gặp phải tiêu cực mạng xã hội như nhiều người đăng tải thông tin sai thât, khiến cho em nên tin ai; nhiều người bị hack nick, tải viết không phù hợp với lứa tuổi, gắn đường link tới web đen hay web có virus phá hủy máy tính, làm cho thông tin mật bị đánh cắp nguy hiểm Tóm lại, có nhiều nguyên nhân khiến mạng xã hội trở nên phổ biến như tiện lợi, hấp dẫn, đại nó; đáp ứng nhu cầu giao tiếp, tự thể người đại; phát triển Internet thiết bị đại như điện thoại thông minh, laptop, máy tính bảng,… Cũng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật khác, mạng xã hội sáng tạo phát triển nhằm phục vụ lợi ích xã hội, nhiên sử dụng chịu tác động tích cực hay tiêu cực, điều phụ thuộc vào người Bên cạnh phát huy mặt tích cực mạng xã hội cần loại bỏ ngăn chặn mặt tiêu cực Và có giải pháp hiệu tối ưu từ công tác quản lý quan quản lý nhận thức, mục đích người sử dụng Chúng ta phủ phận mặt tích cực mà mạng xã hội mang lại, giúp hiểu biết, tiếp thu, nâng cao tầm hiểu biết, tri thức, kiến thức tìm hiểu nhiều kiến thức ghế nhà vậy, để góp phần phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực mạng xã hội trước hết người sử dụng tỉnh táo có lương tâm để tránh gây hậu đáng tiếc [...]... khác, mạng xã hội được sáng tạo và phát triển là nhằm phục vụ lợi ích của xã hội, tuy nhiên sử dụng nó như thế nào thì sẽ chịu tác động tích cực hay tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào mỗi con người Bên cạnh phát huy được những mặt tích cực của mạng xã hội thì cần loại bỏ và ngăn chặn được những mặt tiêu cực của nó Và có không có giải pháp nào hiệu quả và tối ưu hơn đó là từ chính công tác quản lý của cơ... thức, mục đích của người sử dụng Chúng ta không thể phủ phận những mặt tích cực mà mạng xã hội đã mang lại, nó giúp chúng ta hiểu biết, tiếp thu, nâng cao được tầm hiểu biết, tri thức, kiến thức cũng như tìm hiểu được nhiều hơn ngoài các kiến thức trên ghế nhà vậy, để góp phần phát huy được mặt tích cực cũng như hạn chế được mặt tiêu cực của mạng xã hội thì trước hết chúng ta là những người... mạng xã hội càng phát triển Nếu bạn không khôn ngoan khi post thông tin trên mạng, sẽ có khi chúng quay lại cắn “bạn” trong tương lai Sẽ ra sao nếu thầy, cô giáo hay sếp của bạn vô tình đọc được một status “trẻ trâu” của bạn? Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên hệ bản thân Bản thân em cũng là một người hay sử dụng các trang mạng xã hội như facebook, youtube, instagram… Mỗi ngày, em sử dụng những trang mạng. .. những trang mạng xã hôi trên khoảng 1- 2 tiếng mỗi ngày để cập nhật thông tin về các sự kiện xảy ra trên khắp thế giới; tích lũy thêm nhiều thông tin, kiến thức về mọi người xung quanh; giải trí qua các video, bài viết hay; nói chuyện, trao đổi thông tin với những người bạn sống ở xa mình Nhưng bên cạnh đó, em cũng gặp phải những tiêu cực của mạng xã hội như nhiều người đăng tải những thông tin sai... Thường so sánh bạn với những người khác trên mạng sẽ làm bạn đau khổ Với sự giúp sức của công nghệ, hình ảnh cũng như hành động hiển thị trên Facebook có thể khác xa với cuộc sống đời thực của người đó Sau một thời gian, có thể bạn sẽ nghĩ rằng những người quen trên Facebook đẹp và tốt hơn bạn, điều này tạo ra một khoảng cách xã hội Tuy nhiên, hãy nhớ rằng tất cả mọi người trên mạng xã hội cũng chỉ là con... bị hack nick, đang tải những bài viết không phù hợp với lứa tuổi, gắn đường link tới các web đen hay web có virus phá hủy máy tính, làm cho những thông tin mật bị đánh cắp rất nguy hiểm Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân khiến mạng xã hội trở nên phổ biến như sự tiện lợi, hấp dẫn, hiện đại của nó; đáp ứng nhu cầu giao tiếp, tự thể hiện mình của con người hiện đại; sự phát triển của Internet cùng các... trang mạng xã hội bán thông tin cá nhân của người sử dụng, lại thêm nhiều nguy cơ từ hacker, virus Cả cơ quan tình báo Mỹ cũng đang dính vào vụ lùm xùm liên quan đến việc cho phép chính phủ truy cập vào những dữ liệu cá nhân bao gồm email, các cuộc gọi Skype… Điều này rõ ràng cho thấy rằng sự bảo mật và riêng tư trên Internet đang bị xâm hại, cảnh báo rằng sự riêng tư cá nhân đang dần mất đi trong khi mạng. .. nhà vậy, để góp phần phát huy được mặt tích cực cũng như hạn chế được mặt tiêu cực của mạng xã hội thì trước hết chúng ta là những người sử dụng hãy tỉnh táo và có lương tâm để tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc ... thuật khác, mạng xã hội sáng tạo phát triển nhằm phục vụ lợi ích xã hội, nhiên sử dụng chịu tác động tích cực hay tiêu cực, điều phụ thuộc vào người Bên cạnh phát huy mặt tích cực mạng xã hội cần... mà mạng xã hội mang lại Giới thiệu thân đến người Mạng xã hội cách tốt để giới thiệu thân đến tất người Chúng ta giới thiệu tính cách, sở thích, quan điểm thân mạng xã hội giúp tìm kiếm hội. .. người mạng xã hội Nếu bạn khám phá sở thích mới, chia sẻ với giới Bằng việc sử dụng mạng xã hội, bạn chia sẻ tất thứ, từ quan điểm sống đến phong cách thời trang Trang chủ Tích cực Tiêu cực Liên - Xem thêm -Xem thêm Những mặt tích cực, tiêu cực của mạng xã hội, Những mặt tích cực, tiêu cực của mạng xã hội, , Giới thiệu bản thân mình đến mọi người

mặt tiêu cực của công nghệ thông tin